MỘT NGHỆ THUẬT DỰNG TRUYỆN CỦA THANH TÂM TUYỀN

 

Thanh Tâm Tuyền nổi tiếng vì đã cách tân thơ ở miền Nam ; ngoài ra ông còn sáng tác kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết, v.v… Về truyện ngắn, ông là tác giả của hai tập truyện : Khuôn Mặt (1964) và Dọc đường (1966). Tập Dọc đường gồm các truyện : Tư, Người gác cổng, Trên mây, Dọc đường, Chim cú, Mỗi người, Sắc trời. Truyện Dọc đường được xem là truyện ngắn xuất sắc nhất, tiêu biểu cho nghệ thuật dựng truyện của Thanh Tâm Tuyền.

Dọc đường kể chuyện một người đàn ông quê mùa, rụt rè, đi thăm người em làm việc trong một đồn điền cao su. Xe đò ngừng lại ở một dãy phố gần rừng cao su, người lơ xe giục người đàn ông xuống xe để xe đò chạy tiếp. Nhưng khi bước xuống khỏi xe, người đàn ông nhận thấy đây không phải là nơi ông ta định đến và muốn trở lên xe. Nhưng người lơ xe ngăn cản không cho ông ta trở lên, vì cái vẻ quờ quạng, ngập ngừng của ông ta có thể làm chậm trễ chuyến xe. Vậy là xe chạy tiếp, bỏ lại người đàn ông đứng ngơ ngác trên hè phố. Người đàn ông ôm khư khư vào người một cái bọc giấy và bắt đầu đi dọc con phố có vài cửa tiệm, vài ngôi nhà, một khoảng đất trống. Người đàn ông dừng lại trước một cửa tiệm sửa xe đạp, hỏi người thợ sửa xe có còn chuyến xe đò nào nữa không. Người này trả lời vắn tắt có lẽ không còn xe nữa. Người đàn ông tiếp tục đi, đến trước một ngôi nhà cửa đóng có cái lu nước trước nhà, người đàn ông dừng chân uống nước và rửa mặt, rồi lại tiếp tục đi và ghé vào một quán nước. Người đàn ông khơi chuyện với người đàn bà chủ quán, kể lể chuyện của mình. Vì biết người đàn ông đang mong có một chuyến xe đò, người đàn bà lắng tai nghe ngóng và báo có chiếc xe be sắp đi qua, người đàn ông vội vã chạy ra đường, có đến hai chiếc xe be đang chậm chạp chạy trên đường, người đàn ông ra dấu xin đi quá giang, nhưng hai người tài xế chỉ vẫy tay chào và hai chiếc xe be vẫn chạy. Người đàn ông trở vào quán, xin ngủ lại đêm. Người đàn bà chủ quán quyết liệt từ chối và dọa sẽ kêu lính đến. Lý do sự từ chối là người đàn ông là kẻ lạ mặt, bà ta sợ lỡ đêm hôm người đó có thể giết bà ta, hoặc sợ nhà chức trách đến xét nhà. Và bà ta xua đưổi người đàn ông. Người này đi trở lên con phố và một lần nữa dừng lại trước tiệm sửa xe đạp. Người thợ đã ngưng làm việc, đã tắm rửa, thay quần áo và đang khẩy đàn ghi ta. Người đàn ông không còn hỏi thăm về các chuyến xe, chỉ nhờ người thợ chỉ dùm một nơi để ngủ tạm qua đêm. Người thợ lúc đầu cười vẻ chế nhạo, sau anh ta đâm ra cáu kỉnh. Người đàn ông lại dừng trước căn nhà cửa đóng có lu nước, và nhẹ nhàng gõ cửa. Trong nhà có tiếng niệm Phật, tiếng mõ, tiếng chuông. Sau mấy lần gõ cửa, có tiếng một bà cụ già từ trong vọng ra, bà cụ hỏi : Ai đó ? và nhìn qua lỗ cửa. Người đàn ông một lần nữa kể chuyện đi thăm người em, nhưng bị lỡ đường, van nài bà cụ cho ngủ lại một đêm. Bà cụ có vẻ nhân đạo hơn bà chủ quán và người thợ sửa xe, bà cụ tin người đàn ông nói thật. Nhưng đến lượt bà cụ van nài người đàn ông hãy thương bà cụ và người cháu và hãy để họ yên. Rồi có tiếng người con gái, cháu bà cụ, cô ta bảo không tin câu chuyện của người đàn ông và hăm dọa sẽ kêu lính. Cô ta quả quyết : không chứa người lạ trong nhà. Đêm đã xuống, có tiếng súng nổ vang trời như một dấu hiệu, tức thì mọi cánh cửa đều vội vàng đóng lại. Người đàn ông dáo dác ngó ra đường.

Trong truyện của Thanh Tâm Tuyền, không gian, thời gian và nhân vật là ba yếu tố được triển khai để làm tăng nỗi sợ hãi đến tột đỉnh của nhân vật.

Không gian

Lessing, nhà văn kiêm nhà phê bình Đức ở thế kỷ 18, quan niệm rằng văn chương và âm nhạc là những môn nghệ thuật gắn liền với thời gian, còn hội họa và điêu khắc là những môn nghệ thuật gắn liền với không gian, vì ngôn ngữ của văn chương trải dài theo thời gian, trong khi các tác phẩm của nghệ thuật tạo hình thì được ngắm nhìn cùng một lúc trong không gian.

Thế nhưng, qua văn chương không gian tuy không được nhận thấy bằng thị giác, nhưng được nhận thức bằng trí tưởng tượng. Trước tiên không gian được nhà văn tưởng tượng và mang dấu ấn chủ quan của nhà văn, rồi không gian đó được người đọc nhận thức qua trí tưởng tượng của mình. Văn chương lại nói về con người, cho nên không gian là một chiều kích mở ra với tha nhân, văn chương tạo nên một không gian có tính xã hội, trong đó con người sống với nhau, sinh hoạt, xây dựng, phá hủy, thương yêu, thù ghét, vui buồn, v. v… rồi chết.

Trong truyện Dọc đường, Thanh Tâm Tuyền vẽ lên một không gian rất rõ ràng, tỉ mỉ như một nhà đo vẽ địa hình, để làm nổi bật tâm lý của nhân vật. Chuyện xảy ra trên một con phố nhỏ, đầu này con phố là quán nước giáp con đường đất và rừng cao su, đầu kia con phố là đồn Dân vệ. Người đọc theo gót người đàn ông đi từ đồn Dân vệ về phía quán nước, để lần lượt thấy những căn nhà hay khoảng đất dọc con phố : cái quán hớt tóc bỏ không, tiệm chạp phô của người Tàu, một căn nhà ở đóng cửa có dán những bích chương, khẩu hiệu, một tiệm trữ Âu dược, một nền nhà đổ, một khoảng đất làm chỗ họp chợ, nhà việc có mái thủng, một nhà bị sập mái trước, tiệm thuốc Bắc có cô gái Tàu lai, tiệm bán sách vở và tạp hóa, một lớp học, tiệm sửa xe đạp, tiệm chạp phô của người di cư, thêm một căn nhà rồi một căn nhà đóng cửa có cái lu nước ở phía trước, cuối cùng đến quán nước.

Lối miêu tả tỉ mỉ con phố như thế, tuy là trong một truyện ngắn, nhưng làm liên tưởng đến nghệ thuật miêu tả của Alain Robbe-Grillet, thủ lĩnh của nhóm Tiểu Thuyết Mới ở Pháp. Với Alain Robbe–Grillet và các tác giả thuộc nhóm Tiểu Thuyết Mới, sự miêu tả thường khi rất dài, rất tỉ mỉ. Tiểu thuyết truyền thống của Pháp, thời Balzac, Zola, Flaubert, đi vào bề sâu của xã hội, của tâm lý, còn Robbe–Grillet thì xây dựng tiểu thuyết trên bề mặt, nhìn thế giới với đôi mắt của một con người đang đi trong thành phố, không có chân trời nào khác hơn là chính cái cảnh trước mắt. Vậy lối miêu tả của Thanh Tâm Tuyền trong truyện này không khỏi làm liên tưởng đến Alain Robbe–Grillet.

Không gian mang những dấu hiệu của chiến tranh với chiếc trực thăng bay nhiều vòng rồi đậu trên khoảng đất trống, vài tiếng đại bác nổ ầm ở xa, những trái hỏa pháo được bắn lên trời. Trong im lặng của không gian, tiếng ve sầu và tiếng côn trùng làm tăng nỗi bơ vơ của người đàn ông, và rồi tiếng đại bác nổ trong đêm gây hoảng sợ cho kẻ lạc đường.

Không gian thu hẹp vào một con phố có tác dụng gây cảm giác ngột ngạt, biểu tượng cho lòng dạ con người hẹp hòi, ích kỷ.

Nhân vật

Trong một không gian được dàn dựng như thế, ống kính của tác giả quay chậm ở quán nước để người đọc thấy rõ những nhân vật nơi đó : người đàn ông chủ quán, hai người đàn ông khác, người đàn bà chủ quán, hai người lính Dân vệ, với cách ăn mặc, đi đứng, nói năng của họ. Quán nước là khởi điểm của truyện. Nơi đây đã có những dấu hiệu bất an : người đàn ông chủ quán chuẩn bị rời quán để đi ngủ đêm ở Biên Hòa, tránh cái nạn bị bắt đi khiêng xác chết ban đêm, để rồi ban ngày bị nhà chức trách hạch hỏi. Một người đàn ông khác trong quán, khi nghe tiếng trực thăng, thì cho rằng đây là một điều chẳng lành. Người đàn ông chủ quán mặc áo lá, quần xà lỏn, một chân co lên mặt ghế… và nói với vợ : Tao là đàn ông mày nghe chưa ?… Đ. m. thứ đồ đàn bà ngu ! Cách ăn nói thô tục, lại thêm giọng nói tàn nhẫn của người này báo hiệu sự tàn nhẫn của những nhân vật ở dọc con phố đối với kẻ lạc đường.

Sau khi cảnh trong quán được dàn dựng, thì nhân vật chính mới xuất hiện ngoài đường, ở trang 6, truyện dài gần 14 trang. Hắn vận bộ bà ba đen, chân đi săng đan, tóc cắt ngắn, mặt mũi gồ ghề xanh xao, tay ôm một cái gói. Từ khi xuất hiện, người đàn ông xa lạ, đi lạc đường đã ở trong tình trạng của kẻ bị xua đuổi : từ trên xe, người lơ xe thúc hối : Xuống lẹ lên cha nội. Rồi đến người đàn bà chủ quán, người thợ sửa xe đạp, bà cụ tụng kinh, niệm Phật, tất cả đều xua đuổi người đàn ông.

Người đàn ông đi lẩn thẩn từ đầu phố này đến đầu phố kia, rồi đi ngưọc trở lại. Không gian càng thu hẹp càng làm nổi bật mối tương phản giữa người và người. Có hai hạng nhân vật : nhân vật câm và nhân vật điếc. Nhân vật câm là những nhân vật dửng dưng, xa vời dưới mắt người đàn ông lạc đường, như cô gái Tàu lai trong tiệm thuốc Bắc đang ngồi đọc báo, người đàn bà di cư trong tiệm chạp phô đưa mắt nhìn trân trân kẻ lạ mặt, và hai người tài xế xe be chỉ đưa tay vẫy chào, không ngừng lại. Bên cạnh những nhân vật câm có những nhân vật điếc. Điếc là làm ngơ trước sự van xin của người lạc đường. Người điếc đầu tiên là người lơ xe, anh ta không cho người khách trở lên xe đi tiếp và không cần biết đến lời kêu xin của người này. Kế đến là bốn cuộc đối thoại giữa người đàn ông lạc đường với những người ở dọc con phố. Đối thoại 1 với người thợ sửa xe đạp. Đáp lại câu hỏi của người lạ mặt, người thợ lạnh nhạt trả lời vắn tắt, rồi tiếp tục làm việc. Đối thoại 2 với người đàn bà chủ quán mà người chồng vừa bỏ đi Biên Hòa. Người đàn bà này nói nhiều hơn người thợ, sự trao đổi lúc đầu bình thường, người đàn bà tò mò muốn biết về người đàn ông lạ mặt ; nhưng khi người này xin ngủ nhờ một đêm thì bà ta từ chối quyết liệt : Chú ở đâu tới tôi không biết. Chú xin ngủ đậu không được. Đi đâu thây kệ chú chớ. Mắc mớ gì tới tôi. Đối thoại 3 : một lần nữa người đàn ông lạc đường tìm cách khơi chuyện với người thợ, người này có vẻ chế riễu rồi phát cáu : Cha này rỡn hoài ta. Tôi đâu quen biết anh. Đối thoại 4 : người đàn ông lạc đường nói chuyện với một bà cụ già đang tụng kinh, qua một cánh cửa đóng kín. Bà cụ hiền lành, đạo đức, tin rằng người đàn ông nói thật. Nhưng trước sự van nài thống thiết của kẻ lỡ đường, bà cụ cũng tỏ thái độ van xin : Trong nhà chỉ có mấy bà cháu không có đàn ông. Lỡ ra tội nghiệp chú ơi… Tựu trung bà cụ cũng từ chối như những người trước, nhưng sự từ chối của bà cụ ẩn dưới hình thức của những lời van lơn, đạo đức. Cuối cùng giọng nói không chút xót thương, đầy hăm dọa của người cháu gái bà cụ đưa người đọc trở về một thực tế tàn nhẫn. Tóm lại, nhân vật điếc là nhân vật có đối thoại, nhưng không lắng nghe người đối diện với mình ; sự xua đuổi người lạ mặt khi thì hung hăng, đầy hăm dọa, khi thì dịu dàng, van lơn, nhưng tựu trung cũng cùng một lý do : mọi người muốn khư khư giữ lấy nếp sống yên ổn của mình, muốn được yên thân và dửng dưng với sự khốn khổ của một kẻ lạc đường ; tất cả đều do tính ích kỷ và hèn của con người.

Qua sự tiếp xúc của các nhân vật điếc với người đàn ông có những biểu tượng của sự xua đuổi. Biểu tượng thứ nhất là nụ cười của người thợ lần đầu tiên thấy người lạ mặt : Anh này (người thợ) chợt ngửng lên loe miệng cười với người đàn ông, nhưng nụ cười tắt ngay tức thời. Biểu tượng thứ hai là cánh cửa đóng kín của nhà bà cụ, cánh cửa đóng có tính xua đuổi, hất hủi, gây ngăn cách giữa người và người, cánh cửa khép kín lòng người. Sau cùng xe cộ là biểu tượng của sự bỏ rơi : sau khi người đàn ông bước xuống xe thì Chiếc xe rồ ga vọt thẳng vào phía rừng cao su. Sau đó : Hai chiếc xe be kềng càng rần rần từ trong rừng cao su, xe chạy chậm… và xe vẫn chạy. Lại một hành động từ khước, bỏ rơi.

Các nhân vật còn có thể vừa điếc vừa vô hình như bà cụ và người cháu ẩn sau cánh cửa đóng kín.

Thời gian

Thời gian trong truyện là một thời gian có tuyến tính, không có sự đi lùi về quá khứ rồi trở lại hiện tại chẳng hạn. Thời gian chỉ đơn giản đi theo mặt trời sắp lặn. Cũng như không gian và nhân vật, thời gian làm tăng nỗi lo sợ của kẻ lạc đường. Trong khi người đàn ông loay hoay tìm chỗ ẩn trú ban đêm thì thời gian từ buổi chiều dần dần đi vào đêm tối. Vào đầu truyện : Buổi chiều vàng rực ở phía đồn Dân vệ… Trong lúc người đàn ông lạ mặt nói chuyện với người đàn bà chủ quán thì Trời bắt đầu tím trên nền bóng núi xa, và người đàn bà thắp cây đèn dầu. Sau khi nói chuyện lần thứ hai với người thợ sửa xe : Người đàn ông quay mặt về phía rừng cao su trong ấy bóng tối đã dầy. Ngoài rừng trời chạng vạng nhá nhem. Cuối cùng khi người đàn ông đứng trước căn nhà có tiếng niệm Phật thì : Trời cứ tối dần.

Đêm đến, tức thời gian đầy đe dọa, gieo kinh hãi cho người lạc đường đang chơi vơi, vẫy vùng trong một không gian lạnh lùng, câm điếc.

Trong truyện Dọc đường, tác giả Thanh Tâm Tuyền đã chọn cho không gian và thời gian những chiều kích hẹp, ngắn : không gian của một con phố, thời gian của một buổi chiều, và những nhân vật điển hình để tạo nên và làm tăng thêm cơn khủng hoảng tâm lý của nhân vật. Nhân vật là một người rụt rè, ôm vào người một cái gói bọc giấy như một cái gì thân thiết, khi xuống xe, anh ta đứng lại bên đường ngơ ngác, rồi lủi thủi đi trong một con phố hoàn toàn xa lạ, gặp những người xa lạ muốn xua đuổi mình. Nhân vật bị hất ra khỏi thế giới con người và phải một mình đương đầu với sự sợ hãi ở một nơi xa lạ, trong đêm tối, không một mái nhà. Vì các nhân vật không có tên cho nên truyện Dọc đường có tính phổ thông, liên quan đến mọi người. Bất cứ ai cũng có thể ở trong tình trạng của người đàn ông lỡ đường. Một cách vô thức, người đọc động lòng trắc ẩn. Tác giả làm nảy sinh nơi người đọc cái bản năng tự đồng hóa với kẻ gặp rủi ro. Thanh Tâm Tuyền cho người đọc thưởng thức một nghệ thuật dựng truyện rất điêu luyện.